• THÔNG BÁO QUAN TRỌNG: Những tài khoản đăng thông tin về casino, cá độ, cờ bạc, lừa đảo, hàng giả, hàng nhái, đồi trụy và những mặt hàng trái với Pháp luật Việt Nam sẽ bị Ban (khóa tài khoản và xóa bài đăng) mà không cần báo trước. Vì vậy, nếu tài khoản của bạn có những nội dung trái Pháp luật Việt Nam, vui lòng xóa những tin đó hoặc bị Ban (khóa tài khoản). Cảm ơn các bạn đã sử dụng website.

Đọc Sách Bi Kịch Nhà Vua

Bookingnet2

New member

Thoạt lướt qua, dễ lầm, vì cái bìa, vì tên cuốn sách, và vì cách viết theo kiểu “tự thuật”, làm cho người đọc có cảm tưởng là một cuốn sách loại “tiểu thuyết kiếm hiệp Tàu rẻ tiền”. Nhưng đọc rồi, mới thấy là mình có thành kiến sai.

Qua cuốn sách, và mượn lời Tự Đức “tự thuật”, tác giả đánh giá Tự Đức và thời đại của ông vua này một cách nghiêm túc, nghiêm khắc nhưng công bằng, đồng thời cũng là một cách phê bình sự hồ đồ của một số tác giả đã viết về Tự Đức.

Một phần cuốn sách nói về một số giai thoại văn học, thí dụ như câu chuyện đôi câu đối “Tử năng thừa phụ nghiệp, thần khả báo quân ân” gán cho Tự Đức, với lời phê “tối hảo! Cương thường điên đảo” gán cho Cao Bá Quát, mà theo tác giả, thực ra là giai thoại bên Tàu, đã được in vào sách Nhất kiến cáp cáp tiếu, chứ đâu phải chuyện Việt Nam. Một thí dụ trong nhiều thí dụ.

Nhưng đáng chú ý hơn, có lẽ là phần đánh giá “chính trị”: vấn đề đối ngoại, việc cấm đạo, vấn đề canh tân , ... Trách nhiệm về thảm sử để mất nước thế kỷ 19 không chỉ thuộc về một mình Tự Đức, mà thuộc về cả tập đoàn cầm quyền (triều đình) và sĩ phu thời đó. Tác giả lý luận và dẫn chứng. Vì khuôn khổ giới hạn của bài này, không thể đi vào chi tiết, chỉ xin trích ra đây một số câu, chúng tóm tắt phần nào ý của tác giả:

Trang 113: (...) Nước ta hồi đó hoàn toàn mờ mịt về những chuyển động long trời lở đất đang diễn ra khắp thế giới (...) Triều Nguyễn chúng tôi (Tự Đức) có cái sai lầm là chủ trương bế môn toả cảng (nhưng) không chỉ bế môn toả cảng trong phạm vi thông thường buôn bán mà thôi. (... Mà cũng có) người đã đi nước ngoài về đấy chứ. Đó là những người tiến bộ thông minh. Nhưng kết quả đi nước ngoài về của họ cũng chỉ đến thế, nghĩa là có một tập hoặc dăm bảy bài thơ phàn nàn, trách cứ mỉa mai. Có thế thôi! Những người như Nguyễn Trường Tộ là hiếm có, nên tiếng nói của ông trở thành đơn độc, lạc lõng giữa đám người mờ mịt (...)

Trang 114-115: Chúng tôi (Tự Đức cũng hay nói lý thuyết cao xa, nhưng thực chất vẫn là những đầu óc tiểu nông cạn hẹp (...) Ngày xưa, các vị sứ giả nước ta sang Tàu, ngoài nhiệm vụ ngoại giao thường để ý học hỏi những bí mật các ngành nghề để về truyền lại cho dân (...) Những tấm gương ấy đã không được các sứ giả triều Nguyễn chúng tôi (Tự Đức) noi theo. Họ chỉ đi nước ngoài để... về làm thơ, và thu hoạch lấy một số kiến văn nằm im trong đầu óc của họ. Chắc có lẽ họ cũng mua được một số hàng hoá nào đó để kín đáo làm quà cho vợ cho con, chứ họ không nghĩ đến cách làm giàu thêm cho đất nước (...)

Trang 116: Từ xưa đến triều đại tôi (Tự Đức) cầm quyền, nước ta chưa hề biết thế nào là một tờ báo. Lần đầu tiên có lẽ tôi (Tự Đức) là ông vua trước nhất trong lịch sử (Việt Nam) được cầm trong tay tờ Hương Cảng tân văn. Đọc tin tức nước ngoài mới biết là người ta đổi mới nhiều lắm. Nhưng, quả là tôi (Tự Đức) cũng u mê không biết tạo điều kiện để báo chí bên ngoài được vào nhiều thêm trong nước, không cọ sát khối óc của mình với khốc óc khác thì không nâng cao được trí tuệ (...)

Trang 120: Muốn quyết thì phải có trình độ nhất định, phải hiểu chuyên môn, không thể đại khái chung chung được. Rồi nếu quyết, phải có người thi hành, (mà) quanh tôi (Tự Đức), toàn là một khối nhà nho, mũ cao áo rộng, chuyện khoa học thì mù tịt, chuyện thế giới thì u u minh minh, mà điều tai hại nhất là tất cả đều có đầu óc rụt rè, sợ thay đổi, sợ chuyển biến.

Trang 121: Sự thiệt thòi của đất nước không chỉ ở người cầm đầu kém cỏi, mà là ở cái hệ thống vua quan chìm đắm trong tầm thức (?) ngu muội, mơ hồ! (...)

Tuy tác giả đã thận trọng ghi cuốn sách vào loại “truyện lịch sử” – và mặc dù một vài đoạn, do cách dàn dựng, có thể làm cho người đọc khó chịu – cuốn sách này vượt hẳn một số ấn phẩm của một số “sử gia” quen phê phán hồ đồ. Còn lại một câu hỏi: khi luận sự việc thế kỷ 19, phải chăng tác giả xót xa nghĩ đến đất nước Việt Nam vào những năm cuối thế kỷ 20 này?​
 
Back
Top